Không Gian Sinh Học

Nhật Ký Công Nghệ Sinh Học


Chuyên mục câu chuyện thành công của khách hàng SBC. Anh Đoàn Ngọc Hiếu, cựu thạc sỹ trường Đại Học Quốc Tế Tp. HCM, là khách hàng thân thiế...


Chuyên mục câu chuyện thành công của khách hàng SBC.

Anh Đoàn Ngọc Hiếu, cựu thạc sỹ trường Đại Học Quốc Tế Tp. HCM, là khách hàng thân thiết của SBC Scientific. Anh từng mơ ước có một công việc ổn định, lấy được bằng Tiến sỹ nước ngoài và đi dạy cho các thế hệ sinh viên trẻ tuổi.

Thế nhưng khi cơ hội đến bằng một lời đề nghị học bổng 100% từ Giáo sư nước ngoài, anh đã từ chối vì... tiếp quản công việc gia đình. Đây quả thực là một cơ hội lớn đối với anh và cũng như với nhiều người khác. Câu chuyện từ chối cơ hội thành tiến sỹ của anh cũng đã lên trang báo Vietnamnet.vn số ra ngày 25/11//2016. Xem ở đây

Anh Hiếu và trang trại Hồng Môn

Thu nhập hơn 30 triệu động/ ngày nhờ nuôi cấy mô.

Tuy nhiên, quyết định của anh thực sự đúng đắn, mỗi ngày trang trại hoa cho ra hơn 30 triệu đồng. Nhờ kiến thức áp dụng từ trên ghế nhà trường, anh đã vận dụng các kỹ thuật nuôi cấy mô vào sản xuất. Từ lúc ra trường, anh đã kết hợp với nhóm chuyên gia người Hà Lan để nhập khẩu các loại giống hoa đẹp và lạ mắt. Người dân ở sở hoa Đà Lạt cũng tự mở các phòng nuôi cấy mô nhằm nhân giống các loại hoa và cây ăn trái nhưng chất lượng không được đảm bảo.  Tham khảo website trang trại của anh tại đây.

Chất lượng cây giống là câu hỏi trăn trở đối với anh và nhiều bà công nông dân khác. Vì thế anh tự nhân giống bằng công nghệ nuôi cấy tế bào thực vật, trong quá trình tìm kiếm đối tác, anh đã chọn SBC là điểm dừng bởi chất lượng môi trường tuyệt hảo đến từ xứ sở Hà Lan. SBC không chỉ giúp cho thành công của anh Hiếu mà còn rất nhiều khách hàng khác trên khắp mọi miền đất nước.

Khi bắt chuyện cùng anh, anh tỏ vẻ rất am tường về công nghệ cũng như hiểu rõ về kinh doanh. Chúng tôi không khỏi ngạc nhiên vì những gì anh đề nghị cung cấp, những dòng sản phẩm mới từ đề nghị của anh cũng đã giúp cho các cơ sở nuôi cấy mô khác thành công hơn.

Từ những ngày đầu, với sự tư vấn tận tình của đội ngũ SBC, từ khâu set up phòng thí nghiệm, cho tới tư vấn về các loại dụng cụ và môi trường nuôi cấy. Đã mang đến sự thành công rực rỡ của anh như ngày hôm nay.

Trang trại mô Hồng môn

Môi trường làm nên thành công của anh.

Môi trường anh sử dụng chủ yếu là MS pha sẵn và các loại hormone do SBC cung cấp, ngoài ra anh cũng tự điều chế cho mình công thức riêng đối với từng giống. Từ lúc còn trên ghế nhà trường, anh đã tiếp xúc với việc pha chế môi trường cho cây. Để pha được môi trường MS- Murashige and Skoog Medium cần có 18 loại chất rời rạc với nhau. Tuy nhiên, nếu mua từng chất để pha chế thì tỷ lệ sẽ không chính xác và quan trọng hơn giá thành rất đắt tiền.

Bảng các loại hoá chất dùng trong môi trường MS- Murashige and Skoog 1962

Thành phn vi lượng
mg/l
µM
CoCl2.6H2O
0.025
0.11
CuSO4.5H2O
0.025
0.1
FeNaEDTA
36.7
100
H3BO3
6.2
100.27
KI
0.83
5
MnSO4.H2O
16.9
100
Na2MoO4.2H2O
0.25
1.03
ZnSO4.7H2O
8.6
29.91



Thành phn đa lượng
mg/l
µM
CaCl2
332.02
2.99
KH2PO4
170
1.25
KNO3
1900
18.79
MgSO4
180.54
1.5
NH4NO3
1650
20.61



Vitamins
mg/l
µM
Glycine
2
26.64
myo-Inositol
100
554.94
Nicotinic acid
0.5
4.06
Pyridoxine HCl
0.5
2.43
Thiamine HCl
0.1
0.3
.
Việc sử dụng từng chất để pha thành các stock như vi lượng, đa lượng, vitamins... rất phức tạp trong sản xuất đặc biệt là những người mới học nuôi cấy mô. Hơn nữa, sau khi pha chế phải chuẩn môi trường với độ pH là 5.8. Do đó, rất công phu và phức tạp khi tự pha chế.

Trước sự bất cập như vậy, SBC đã cung cấp loại môi trường MS pha sẵn rất tiện lợi, không tốn công pha chế, không cần chuẩn lại pH, tiết kiệm rất nhiều thời gian, công sức mà hiệu quả đem lại rất cao. Như thành công của a Hiếu là một minh chứng cho tính hiệu quả của môi trường này.

SBC Scientific

Có thể bạn quan tâm:
1. Quy trình nhân giống lan  
2. Thu hơn 80 tấn rau sạch nhờ áp dụng nông nghiệp công nghệ cao 
3. Nên chú trọng đầu tư nông nghiệp công nghệ cao

Giá trị và uy tín của một tạp chí hay tập san khoa học nào đó thường được đánh giá bằng hệ số ảnh hưởng (Impact Factor hay gọi tắt là IF). H...


Giá trị và uy tín của một tạp chí hay tập san khoa học nào đó thường được đánh giá bằng hệ số ảnh hưởng (Impact Factor hay gọi tắt là IF). Hệ số ảnh hưởng được tính dựa vào số lượng bài báo được công bố và tổng số lần những bài báo đó được tham khảo hay trích dẫn. Hiện tại người ta định nghĩa hệ số ảnh hưởng như sau: IF của một tập san trong năm là số lần tham khảo trung bình các bài báo được công bố trên tập san trong vòng 2 năm trước. Ví dụ như trong 2 năm 1980 và 1981, Tập san Lancet công bố 1,000 bài báo khoa học; trong năm 1982 có 10,000 bài báo khác trên các tất cả các tập san (kể cả Lancet) có tham khảo hay trích dẫn đến 1,000 bài báo đó; và hệ số IF là 10,000 /1,000 =10 . Còn một giải thích khác như sau, tính trung bình mỗi bài báo đầu tiên trên tờ Lancet có khoảng 10 lần được tham khảo đến hay trích dẫn. Vì yếu tố thời gian của việc tính toán, cho nên hệ số ảnh hưởng cũng thay đổi theo thời gian và cách xếp hạng tập san cũng thay đổi theo. Chẳng hạn như vào thập niên 90 British Medical Journal từng nằm trong nhóm các tập san hàng đầu trong y học, nhưng đến đầu thế kỉ 21 hệ số ảnh hưởng của tập san này bị xụt giảm nghiêm trọng. Bởi vậy, tập san nào có hệ số IF cao thì ngầm hiểu là có uy tín và ảnh hưởng cao. Công bố một bài báo trên tập san có hệ số ảnh hưởng cao có thể đồng nghĩa với mức độ quan trọng và tầm ảnh hưởng của bài báo cũng cao. Xin lưu ý là khả năng có thể thôi, bởi IF là chỉ số phản ánh ảnh hưởng của một tập san, chứ không đo lường hệ số ảnh hưởng của một bài báo cụ thể .  Ngược lại, một bài báo trên một tập san có hệ số IF thấp nhưng có thể được trích dẫn nhiều lần. Chẳng hạn như một bài báo viết về một phương pháp phân tích thống kế trong di truyền học công bố trên tập san Behavior Genetics (với IF thấp hơn 2), nhưng được trích dẫn và tham khảo hơn 10.000 lần trong 20 năm sau đó!

Khuyết điểm của hệ số ảnh hưởng đã được nêu lên khá nhiều lần trước đó. Ngay cả người sáng lập ra hệ số IF cũng thú nhận những thiếu sót của hệ số này. Một số bộ môn khoa học có xu hướng công bố nhiều bài báo ngắn, hay đơn thuần là họ có truyền thống trích dẫn lẫn nhau, thậm chí tự mình trích dẫn mình. Có nhiều nhà khoa học trích dẫn những bài họ chưa từng đọc, trích theo nguồn tham khảo của họ. Ngoài ra, những bộ môn nghiên cứu lớn (như y khoa chẳng hạn) có nhiều nhà nghiên cứu và con số bài báo cũng như chỉ số trích dẫn cũng tăng theo. Cũng có thể có trường hợp bài báo kém nhưng được trích dẫn để làm gương cho người khác. Nói tóm lại, con số thống kê bài báo và chỉ số trích dẫn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố ngoại vi hơn là chất lượng khoa học. Đa phần bài được trích dẫn nhiều có liên quan đến phương pháp, hay thuộc loại điểm. Nhiều nghiên cứu tốt nhưng nhiều người chưa hiểu ra, và người ta chỉ hiểu rõ giá trị của chúng sau nhiều năm sau khi công bố.

Dù hệ số IF vẫn còn khiếm khuyết nhưng cho tới nay người ta vẫn dùng vì chưa có hệ thống nào tốt hơn. Cho nên IF chỉ mang tính chất tham khảo.

Nguyên tắc bình duyệt như thế nào?

Sau khi tác giả bài viết gửi bản thảo của bài báo đến một tập san chuyên môn nào đó, tổng biên tập hay phó tổng biên tập sẽ xem qua bài báo và quyết định bài báo có xứng đáng được gửi ra ngoài để bình duyệt hay không. Nếu không xứng đáng, tổng biên tập sẽ báo ngay (trong vòng 1 tháng) cho tác giả biết là bài báo không được bình duyệt. Nếu thấy bài báo có giá trị và cần được bình duyệt, tổng biên tập sẽ gửi bản thảo cho 3 hoặc 4 người bình duyệt.

Người kiểm duyệt là chuyên gia và am hiểu trong vĩnh vực chuyên môn

Những người bình duyệt là chuyên gia trong lĩnh vực liên quan. Tác giả không biết người bình duyệt là ai, nhưng người bình duyệt lại biết được tác giả vì họ có trong tay bản thảo. Người bình duyệt sẽ xem xét toàn bộ và gửi ý kiến của mình cho tổng biên tập đêt quyết định có đăng bài hay không. Người quyết định cuối vẫn là tổng biên, nhưng thông thường chỉ 1 người bình duyệt nói không thì số phận bài viết ấy sẽ rất bấp bênh.

Tuy nhiên người bình duyệt có khả năng sẽ cho tác giả một cơ hội để phản hồi lời phê bình. Nếu có cơ hội phản hồi, tác giả phải trả lời từng phê bình của từng người bình duyệt. Bài phản hồi phải được viết như một báo cáo, và tất cả những thay đổi trong bài báo tác giả phải báo cho tập san biết. Giai đoạn này tốn từ 1 đến 3 tháng.

Nếu tác giả không có phản hồi thì tổng biên có quyền từ chối bài đăng. Nếu bài phản hồi cần xem xét lại tổng biên tập sẽ gửi cho những người bình duyệt xem lại một lần nữa và tác giả có khi phải phản hồi một lần sau cùng. Giai đoạn này cũng tốn từ 1 đến 3 tháng.
Tóm lại từ lúc nộp bản thảo cho tới in trên mặt giấy thì thời gian tốn khoảng 9 tháng đến 1 năm. Bởi vì thời gian quá lâu như thế, cho nên một số tác giả có khi quyết định tự công bố trước dưới dạng sơ bộ để chia sẽ cho đồng nghiệp( dạng này là pre-print).

Mục đích chính của việc bình duyệt là đánh giá và kiểm tra các bài báo trước khi chấp nhận đăng chính thức, các bài đăng này có thể được dùng trong việc xin tài trợ nghiên cứu.

Đương nhiên, người bình duyệt là người có chuyên môn nên có thẩm quyền trong việc xét duyệt. Tuy nhiện, họ là con người nên sẽ có thiên kiến. Do đó, kết quả xét duyệt không phải lúc nào cũng khách quan.

Ý nghĩa của bài báo khoa học

Để được xem là một bài báo khoa học thì nó sẽ trãi qua cơ chết bình duyệt và được công bố trên tạp chí chuyên môn. Những bài báo xuất hiện dưới dạng “abstracts” hay “proceedings” không được xem là những bài báo khoa học bởi vì nó không đáp ứng được hai yêu cầu trên.  Tuy nhiên, có nhiều nhà khoa học nhầm lẫn, họ đã liệt kê abstract và proceedings trong lý lích nghiên cứu của mình như là bài báo khoa học. Đối với người không am hiểu khoa học thì sự nhầm lẫn này không sao, nhưng các nhà khoa học cần phải nghiêm chỉnh vấn đề này.

Nhìn chung, công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn Quốc tế cũng là cách nâng cao hiện diện, năng suất khoa học của Quốc gia. Tỷ lệ công bố các bào báo khoa học ở VN chưa cao. Đa phần các công trình nghiên cứu ở VN chỉ ở mức độ nghiêm thu hay luận án.  Nếu công trình chưa được công bố trên diền đàn khoa học Quốc tế thì nó chưa được coi là hoàn tất.

Để có sự đề xuất ở các trường đại học phương Tây, ngoài các yếu tố như giảng dạy, tài trợ nghiên cứu và phục vụ xã hội thì tiêu chuẩn quan trong khác là chất lượng bài báo khoa học của ứng viên đó. Theo quy đinh, muốn được đề bạt lên  giáo sư dự khuyết ( Assistant professor), ứng viên phải có từ 3-5 bài báo khoa học; còn phó giáo sư (associate professor) phải có ít nhất 30 bài báo khoa học trở lên; và giáo sư (professor) phải có từ 50 bài báo trở lên. Đây là tiêu chuẩn chung, và tối thiểu. Còn các viện hay trường Đại học sẽ có một số quy định riêng.

Tham khảo: Ts. Nguyễn Huy Hoàng, Biodata Center.

Muỗi: là phương tiện truyền nhiễm bệnh Có thể nói muỗi là một sinh vật xấu xí. Chúng cắn bạn, gây tiếng vo ve rất khó chịu vào ban đêm, làm ...



Muỗi: là phương tiện truyền nhiễm bệnh

Có thể nói muỗi là một sinh vật xấu xí. Chúng cắn bạn, gây tiếng vo ve rất khó chịu vào ban đêm, làm phiền bạn và thậm chí còn hơn thế nữa. Chúng là phương tiện truyền nhiễm bệnh sốt rét. Người bị muỗi cắn mà có ký sinh trùng sốt rét thì sẽ có triệu chứng sốt, cảm lạnh, nôn mửa và thâm chí là tử vong.


Tổ chức Y tế Thế giới dự đoán rằng gần 3,2 tỷ người - đó là một nửa dân số thế giới - có nguy cơ mắc bệnh sốt rét, và trong số những người có nguy cơ, có tới 214 triệu người bị nhiễm bệnh trong năm 2015. Trong số những người bị nhiễm bệnh sốt rét, ít nhất 438.000 người chết.

Trong khi các nỗ lực toàn cầu đã giảm thành công tỷ lệ mắc bệnh sốt rét bằng 60 phần trăm kể từ năm 2000, các nhà nghiên cứu đã tìm ra một cách khác tốt hơn nhờ một loại vaccine sốt rét mới.

Một cách mới trong tiêm chủng

Vaccine sốt rét đưa tới cộng đồng nhiễm bệnh thật là nan giải bởi chúng bắt nguồn từ ký sinh trùng chứ không phải virut. Do đó, có một số hình thức thử nghiệm tiêm ký sinh trùng bị suy yếu vào cơ thể để tạo ra loại vaccine mới, Sanaria® PfSPZ. Các thoi trùng ký sinh trùng suy yếu được phát triển bởi Sanaria Inc. thông qua một nghiên cứu lâm sàng được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu từ Viện Quốc gia (NIH) Viện Dị ứng Y tế và NIAID và Đại học Bamako oẻ Bamako, Mali.

Vaccine này có hiệu quả 100% trong các thử nghiệm lâm sàng tại Hoa Kỳ và có hiệu quả 48% ở Mali. Một nhà điều tra tại Mali, tiến sĩ Sara Healy MD, MPH, đã lưu ý rằng "mức độ hiệu quả bền vững chống lại nhiễm trùng sốt rét trong một khu vực là điều chưa từng thấy trong các nghiên cứu vắc xin sốt rét trước đây ở châu Phi," mở ra một cơ hội mới cho loại vaccine mới chế tạo này.

Sanaria không chỉ là thuốc chủng ngừa bệnh sốt rét đang ở giai đoạn phát triển.  Mà vaccine sốt rét GSK, Mosquirix ™, dự kiến sẽ tung ra cho công chúng vào năm 2018.  Cho đến gần đây, chúng ta không có biện pháp phòng ngừa sự thật chống lại bệnh sốt rét, và bây giờ cục diện đã thay đổi.

Nguồn: Futurism

Khi đang rảnh rổi hay uể oải việc gì đó như đang chờ xe buýt, chờ bạn đến một cuộc hẹn hay chờ ấm nước sôi lên, ta thường bấm điện thoại kiể...

Khi đang rảnh rổi hay uể oải việc gì đó như đang chờ xe buýt, chờ bạn đến một cuộc hẹn hay chờ ấm nước sôi lên, ta thường bấm điện thoại kiểm tra, động tác này dường như vô thức. Đó là một sự cưỡng chế khó chống lại được. Không chỉ có bạn trong tình trạng này mà còn có rất rất nhiều người trên thế giới đều làm tương tự.



Theo cuốn sách Can’t Just Stop: An Investigation of Compulsions", Sharon Begley chủ biên, giải thích nguyên nhân sâu xa ở hành động này.

"Hormone Dopamine ở não có thể giúp dự đoán được mức độ yêu thích của bạn đối với một thứ gì đó và mức độ thích thú mà điều đó mang lại. Khi thực tế không đáp ứng đủ những gì mong đợi, lượng dopamine sẽ rơi xuống mức rất thấp và khiến chúng ta cảm thấy khó chịu."Giải thích dễ hiểu hơn một chút, Dopamine chính là  hormone truyền dẫn thần kinh cho cảm giác thích thú là nguyên nhân gây ra thói quen này.

Dopamine gây ra cảm giác nghiện thứ gì đó


Chà... thứ chúng ta nghiện không phải cảm giác thích thú khi mở mạng xã hội( Facebook, Instagram...) ra thấy một lượt like hay comment, mà chính là cảm giác lo lắng khi thực tế không giống như mong đợi.

Cảm giác bạn lo lắng khi Facebook chả có gì cả.. 1 thông báo mới ư?

Vậy làm sao để thoát khỏi cảnh trông đợi vào thông báo trên điện thoại?
Tác giả cuốn sách Begley cho rằng nếu chúng ta muốn ít phụ thuộc vào điện thoại hơn thì cần phải xác định nguồn gốc của sự lo lắng.

Bắt đầu hỏi bản thân xem:" Liệu tôi không đọc tin nhắn này lập tức thì sẽ tệ tới mức nào?"," Liệu sau 1 giờ tôi không kiểm tra email thì chuyện gì sẽ xảy ra? Nếu sau 2 giờ vẫn chưa kiểm tra email thì chuyện gì tệ hơn hay thậm chí một ngay, hai ngày... thì sao?"

Vâng! Nói thì dễ lắm nhưng để thực hiện thì phải để chúng ta thích nghi từ từ. Chúng ta có thể dành thời gian cho các hoạt động khác, tạm lánh xa chiếc điện thoại thân yêu một chút.  Thí dụ như chơi cầu lông, chạy bộ hoặc chỉ đơn giản là tán gẫu dành thời gian tiếp xúc với thế giới thật nhiều hơn.

Nguồn: Independent, ttvn

Một loại thuốc tiêm tránh thai mới có tên gọi là Vasalgel được sử dụng cho đàn ông nhằm ngăn chặn quá trình thụ tinh ngoài ý muốn.Vasalgel s...


Một loại thuốc tiêm tránh thai mới có tên gọi là Vasalgel được sử dụng cho đàn ông nhằm ngăn chặn quá trình thụ tinh ngoài ý muốn.Vasalgel sử dụng hydrogel vốn có đặc tính linh hoạt và xốp ngăn chặn tinh trùng đi vào ống dẫn tinh. Những chất dịch khác có thể đi qua lớp gel này, trừ các tế bào tinh trùng. Kết quả là người đàn ông không cần phải mang bao cao su vẫn tránh được khả năng mang thai ở phụ nữ.

Liều thuốc tiêm này có hiệu quả rất lâu, không phải kiểu như uống thuốc tránh thai hàng ngày rất bất tiện. Tuy nhiên, nếu bạn muốn có con thì quá trình này có thể đảo ngược để quá trình thụ thai xaỷ ra bình thường.

Cơ chế hoạt động của Vasalgel

Loại thuốc tiêm này đang được thử nghiệm trên khi Rhesus. Có khoảng 16 con khỉ đực được tiêm Vasalgel, sau đó được nuôi với 3-9 khỉ cái trong ít nhất một mùa sinh sản. Bảy khỉ đực trong số đó được nuôi với con cái tới hai năm. Sau khi tiêm Vasalgel, không có trường hợp thụ thai nào xảy ra trên nhóm khỉ nghiên cứu. Các thử nghiệm này không ảnh hưởng đến hệ miễn dịch cũng như không có ảnh hưởng tiêu cực nào tới nhóm khỉ nghiên cứu.

Loại thuốc tiêm này trước đó được thử nghiệm trên thỏ tại Parsemus Foundation- nơi nghiên cứu Vasalgel. Tổ chức này cũng đang chuẩn bị thử nghiệm lâm sàng và dự kiến 2018 sẽ đưa ra sản phẩm thương mại.

Vasalgel ngăn tế bào tinh trùng vào ống dẫn tinh


Hiện tại các biện pháp tránh thai như mang bao cao su, tỉ lệ mang thai ngoài ý muốn vẫn còn cao. Hoặc phương pháp thắc ống dẫn trứng nam giới thì sau khi mở ống có tới 15% đàn ông không thể có con. Nhiều cặp vợ chồng cũng chọn phương pháp dùng thuốc hoặc dụng cụ tử cung nhưng chúng có nhiều tác dụng phụ.

Điểm hay của Vasalgel là chúng ngăn ngừa tế bào tinh trùng thôi.  Không cần phải uống thuốc hay thắc ống hay mang bao cao su. Thú vị hơn nữa, biên pháp này rất hữu dụng để kiểm soát sinh sản đối với động vật ở sở thú.

Tuy nhiên, biện pháp mới này cần thời gian thử nghiệm và cải tiến. Lợi ích từ loại thuốc mới này rất lớn, kiểm soát kế hoạch sinh sản một cách nhanh chóng, tiện lợi và ít tốn kém.

Nguồn: Parsemus Foundation

Cuốn Ebook tiếng Anh chuyên ngành công nghệ sinh học- công nghệ hoá học và thực phẩm ra đời sẽ giúp ích cho các bạn trau dồi kỹ năng tiếng A...


Cuốn Ebook tiếng Anh chuyên ngành công nghệ sinh học- công nghệ hoá học và thực phẩm ra đời sẽ giúp ích cho các bạn trau dồi kỹ năng tiếng Anh chuyên ngành. Cuốn sách do GS Nguyễn Thị Hiền chủ biên, trình bày với nội dung khá gẫn gũi và dễ hiểu. Cuốn sách đã được biên soạn khá lâu từ năm 1980, sau 10 năm được đưa vào giảng dạy cho sinh viên Ngành lên men. Cuốn sách có 40 bài khoá và 20 bài đọc thêm với các chuyên ngành hẹp. Mỗi bài khoá có luyện và ôn ngữ pháp cơ bản, như vậy sinh viên hoặc độc giả có thể đọc các cuốn sách về kỹ thuật khác tốt hơn.

Nôj dung cuốn sách bao gồm:
1. Các chủ đề bằng tiếng Anh
2. Ngữ pháp
3. Baì tập
4. Từ vựng.

Link tải cuốn sách: Ngôn ngữ tiếng Anh chuyên ngành công nghệ hoá học, công nghệ thực phẩm và công nghệ sinh học.

Hoặc copy dòng link bên dưới:
https://www.dropbox.com/s/w09tmdlmyik666l/Tieng_anh_chuyen_nganh_cong_nghe_hoa_hoc_cong_nghe_thuc_pham_va_cong_nghe_sinh.pdf?dl=0

Tham khảo thêm:
1. 6 bí kíp học tiếng Anh 
2. Tên các dụng cụ thí nghiệm bằng tiếng Anh